Thứ Bảy , 23 Tháng Mười Một 2024
Trang chủ / Giáo Luật / CẨM NANG: 3. NGĂN TRỞ TIÊU HÔN, CẤM HÔN – JB. Lê Ngọc Dũng

CẨM NANG: 3. NGĂN TRỞ TIÊU HÔN, CẤM HÔN – JB. Lê Ngọc Dũng

3. NGĂN TRỞ TIÊU HÔN, CẤM HÔN

3.1. Ngăn trở tiêu hôn nói chung

a- Ý nghĩa

Ngăn trở tiêu hôn làm cho người ta không có năng cách để kết hôn thành sự (đ. 1073).

“Ngăn trở” ở đây có nghĩa là ngăn cản (người ta kết hôn). Chữ “tiêu hôn” được dịch từ chữ dirimere của Latin, có nghĩ là làm tiêu hủy hay chấm dứt.
“Ngăn trở tiêu hôn” (impedimentum dirimens) sẽ làm cho người ta không còn năng cách để kết hôn hữu hiệu.
“Ngăn trở tiêu hôn” cũng thường được gọi tắt là “ngăn trở”.

b- Phân biệt với những ngăn cản hôn nhân khác

Cần phân biệt ngăn trở tiêu hôn với những ngăn cản khác, như là cấm hôn hoặc những trường hợp Giáo luật đòi phải xin phép Đấng Bản quyền địa phương để kết hôn hợp pháp (đ. 1071).
Khi mắc ngăn trở tiêu hôn thì hôn nhân bị hủy tiêu hay vô hiệu, nhưng hôn nhân không vô hiệu chỉ vì đang bị cấm hôn hay chưa xin phép Đấng Bản quyền địa phương.
Ví dụ, hôn nhân khác đạo (giữa người Công giáo và người lương) thì mắc ngăn trở tiêu hôn, cần phải có miễn chuẩn ngăn trở để kết hôn hữu hiệu; nếu không, kết hôn sẽ vô hiệu. Tuy nhiên, hôn nhân hỗn hợp (giữa người Công giáo với Tin lành. ..) thì cần phải xin phép Đấng Bản quyền địa phương để kết hôn hợp luật, chứ không để kết hôn hữu hiệu. Trong trường hợp này, nếu không xin phép, hôn nhân vẫn hữu hiệu nhưng bất hợp luật.

c- Quyền thiết lập ngăn trở

Giáo hội, cũng tương tự như các quốc gia, vì công ích và vì những truyền thống luân lý đạo đức, thiết lập những luật để hạn chế quyền kết hôn. Những ngăn trở này thuộc luật thiết định của con người, hay còn gọi nhân luật, ví dụ ngăn trở hôn nhân khác đạo, ngăn trở tội ác… Một số ngăn trở khác thì được Giáo hội xác định và tuyên bố dựa theo thiên luật hay luật tự nhiên.
Giáo luật, điều 1075, quy định:

§1. Việc chính thức tuyên bố khi nào luật Thiên Chúa cấm kết hôn hay tiêu hôn thuộc quyền bính tối cao của Giáo hội mà thôi.
§2. Cũng chỉ có quyền bính tối cao ấy mới có quyền thiết lập những ngăn trở khác đối với những người đã được Rửa tội.

Hai chủ thể có quyền bính tối cao trong Giáo hội là Đức Giáo Hoàng (đ. 331), Giám mục đoàn hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng (đ. 336), mới có quyền thiết lập những ngăn trở tiêu hôn. Các Giám mục Giáo phận hay cha sở không có thẩm quyền thiết lập ra những ngăn trở tiêu hôn. Tục lệ nào du nhập một ngăn trở mới hoặc nghịch với ngăn trở hiện có đều bị Giáo luật phi bác, bị coi là vô giá trị (đ. 1076).
Ví dụ, cha sở hay Giám mục không có quyền xác định người Công giáo đã chối bỏ đức tin kết hôn vô hiệu (đ. 1107,40), hoặc xác định hôn nhân không có đăng ký ở chính quyền dân sự là vô hiệu (đ. 1107,20).

d- Sự nhận biết về điều luật ngăn trở tiêu hôn

– Làm sao nhận ra được điều luật nào là có quy định về ngăn trở tiêu hôn?
Đó là, khi trong điều luật có xuất hiện những chữ xác định sự vô hiệu hay vô năng, ví dụ như: vô hiệu, tiêu hủy, bất thành, không thành sự, không có khả năng…
Ví dụ, đối với ngăn trở khấn dòng, luật quy định:

Những người ràng buộc bởi lời khấn công vĩnh viễn giữ đức khiết tịnh trong một hội dòng kết hôn cũng bất thành (đ. 1088).

Chữ “bất thành” trong điều luật trên giúp khẳng định rằng, lời khấn công nói trên là một ngăn trở tiêu hôn.
Nên lưu ý, sự chối bỏ đức tin của người Công giáo không trở thành một ngăn trở tiêu hôn. Đơn giản là, Giáo luật không có điều luật nào quy định hôn nhân của người này là “vô hiệu” hay “bất thành”, nhưng chỉ quy định phải “có phép” của Đấng Bản quyền địa phương (đ. 1071,40).
– Ngăn trở tiêu hôn không tùy thuộc vào sự hiểu biết hay ngay tình của con người, nghĩa là, nó vẫn có tác dụng tiêu hủy hôn nhân ngay cả khi có sự lầm lẫn hay không biết một cách ngay tình, hoặc của cha chứng hôn, hoặc của đôi bạn hay của người khác (đ. 15§1).
e- Nihil obstat
Nihil obstat, tiếng La tinh, có nghĩa là không có gì trở ngại.
Ngày nay, đôi khi trong hồ sơ hôn phối từ nước ngoài gởi về xin được cử hành kết hôn tại Việt Nam, Bản quyền địa phương hay cha sở ở nước ngoài có kèm theo giấy chứng nhận Nihil obstat. Nhờ giấy xác nhận này, cha sở biết rằng không có gì trở ngại cho việc kết hôn thành sự và hợp luật, nên ngài chấp nhận chứng hôn cho đôi bạn.

3.2. Mười hai ngăn trở tiêu hôn

1- Tuổi

§2. Hội đồng Giám mục có trọn quyền ấn định tuổi cao hơn để kết hôn cách hợp thức (đ. 1083).
§1. Người nam chưa trọn mười sáu tuổi, cũng như người nữ chưa trọn mười bốn tuổi, không thể kết hôn thành sự.

Điều kiện để kết hôn “thành sự” theo Giáo luật là nam đủ 16 tuổi trọn, nữ đủ 14 tuổi trọn; nhưng đối với điều kiện để kết hôn “hợp luật” thì phải theo ấn định của HĐGMVN.
HĐGMVN hiện nay ấn định tuổi kết hôn hợp luật, theo như luật quốc gia Việt Nam: nam đủ 20 tuổi trọn, nữ đủ 18 tuổi trọn,
Về cách tính tuổi để kết hôn hợp luật, Giáo hội căn cứ theo quy định của Tòa án Nhân dân Tối cao, trong Thông Tư liên tịch, ngày 6-1-2016, như sau:

1. “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” quy định tại điểm a khoản 1 điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp nam đã đủ hai mươi tuổi, nữ đã đủ mười tám tuổi trở lên và được xác định theo ngày, tháng, năm sinh.
Trường hợp không xác định được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như sau:
a) Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì tháng sinh được xác định là tháng một của năm sinh;
b) Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của tháng sinh.

Ví dụ: Chị A sinh ngày 10-01-1997, đến ngày 10-01-2015 chị A đăng ký kết hôn với anh B tại Ủy Ban Nhân Dân xã X. Tại thời điểm đăng ký kết hôn chị A đã đủ 18 tuổi. Nếu chỉ xác được chị A sinh tháng 01 năm 1997 thì ngày sinh được quy định là ngày 01 tháng 01 năm 1997.

 2- Bất lực

Bất lực giao hợp có trước khi kết hôn và vĩnh viễn, hoặc phía bên nam hoặc phía bên nữ, hoặc tuyệt đối hoặc tương đối tự bản chất tiêu hủy hôn nhân (đ. 1084). 

a- Bất lực giao hợp gây tiêu hôn được luật quy định phải là có trước khi kết hôn và vĩnh viễn, nghĩa là, không có khả năng chữa trị được. Bất lực gọi là tuyệt đối khi người này không có khả năng giao hợp đối với tất cả mọi người khác; gọi là tương đối khi không có khả năng chỉ đối với một số người. Bất lực tương đối thường do bị sốc tâm lý của bên nam hoặc bên nữ.
b- Bất lực giao hợp thuộc ngăn trở tiêu hôn theo luật tự nhiên nên không ai có quyền miễn chuẩn, không được kết hôn. Tuy nhiên, trước khi kết hôn, “nếu hồ nghi có ngăn trở bất lực, dù hồ nghi về luật hay về sự kiện, thì không được ngăn cản hôn nhân và cũng không được tuyên bố là hôn nhân bất thành, bao lâu còn hồ nghi” (đ. 1084§2).
c- Tình trạng son sẻ, không thể sinh con, do người nam hoặc do người nữ không bị cấm hay tiêu hủy hôn nhân (đ. 1084§2).
Tuy nhiên khi một bên biết rõ hay có nghi ngờ mình không có khả năng sinh con thì phải cho phía bên kia biết trước khi kết hôn. Nếu không cho người mình sắp kết hôn biết về việc đó thì hôn nhân có thể được tòa án giáo phận tuyên bố là vô hiệu, dựa trên nền tảng bên kia bị lầm lẫn do bên này lừa gạt, chiếu theo quy tắc của điều 1098.

3- Dây hôn phối

Người đang ràng buộc bởi dây hôn phối trước, dù chưa hoàn hợp, thì kết hôn cũng bất thành (đ. 1085).

a- Dây hôn phối được thành lập khi đôi bạn kết hôn, dù là theo thể thức dân sự hay tôn giáo. Theo giáo thuyết Công giáo,  dây hôn phối không thể đoạn tiêu cho dù đó là dây hôn phối Công giáo hoặc dân sự, hoặc tôn giáo khác.
b- Dây hôn phối làm cho kết hôn tiếp theo sau bất thành, dù trong hôn nhân trước họ chưa hoàn hợp. Giáo hội theo thuyết “ưng thuận”, chủ trương sự kết hôn hệ tại ở sự ưng thuận của đôi bạn chứ không hệ tại ở sự hoàn hợp.
Gratianus, nhà Giáo luật thế kỷ 12, có nêu lý thuyết cho rằng hôn nhân chỉ hoàn thành khi đôi bạn đã hoàn hợp (x. Decretum Gratiani), nhưng Giáo hội đã không công nhận lý thuyết này.
Nếu có hồ nghi một trong đôi bạn có vướng ngăn trở dây hôn phối thì phải đình hoãn việc kết hôn cho tới khi được xác định rõ. Giáo luật nhấn mạnh rằng:
“Dù hôn nhân trước bất thành hoặc được tháo gỡ vì bất cứ lý do nào, thì không vì đó mà được phép kết hôn lần nữa, trước khi thấy rõ cách hợp thức và chắc chắn rằng hôn nhân trước đã bất thành hoặc đã được tháo gỡ” (đ. 1085§2).[1]

 4- Khác đạo (dị giáo)

 Hôn nhân giữa một người đã được Rửa tội Công giáo với người không được Rửa tội thì bất thành (đ 1086§1).

Hôn nhân “khác đạo”, cũng được gọi là hôn nhân “dị giáo”, là hôn nhân giữa một bên là Công giáo và một bên không được Rửa tội. Hôn nhân khác đạo bị ngăn trở tiêu hôn.
Hôn nhân gọi là “hỗn hợp” khi một bên là Công giáo và bên kia được Rửa tội trong một Kitô giáo khác (Tin Lành, Anh Giáo…) mà không hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo. Hôn nhân hỗn hợp không bị tiêu hôn nhưng cần phải có phép minh nhiên của Đấng Bản quyền địa phương (đ.1124).

5- Chức thánh

 Những người đã lãnh nhận chức thánh kết hôn cũng bất thành (đ. 1087).

Những chức thánh là chức Giám mục, Linh mục và Phó tế. Ngăn trở chức thánh thuộc luật Giáo hội. Quyền miễn chuẩn ngăn trở chức thánh được dành riêng cho Tông Tòa.
Giáo sĩ triều khi xuất ra kết hôn thì phải trải qua hai tình trạng: 1- Xuất ra khỏi hàng giáo sĩ,[2] hoặc do xin và được ân ban hoặc do bị trục xuất; 2- Xin Tòa Thánh và được miễn chuẩn ngăn trở chức thánh.
Giáo sĩ dòng khi xuất ra kết hôn thì phải trải qua hai tình trạng: 1- Chấm dứt lời khấn dòng công, hoặc do xin và được miễn chuẩn giữ lời khấn hoặc do bị sa thải; 2- Xin Tòa Thánh và được miễn chuẩn ngăn trở chức thánh.

6- Khấn dòng

Những người ràng buộc bởi lời khấn công vĩnh viễn giữ đức khiết tịnh trong một hội dòng kết hôn cũng bất thành (đ. 1088).

Ngăn trở khấn dòng được điều 1088 nói đến là lời “khấn công”, gây tiêu hôn cho người đang bị ràng buộc bởi lời khấn công vĩnh viễn giữ đức khiết tịnh trong một hội dòng.
Ngăn trở này chỉ gây tiêu hôn nếu khấn trong một “hội dòng” (institutum religiosum), chứ không gây tiêu hôn nếu khấn trong tu hội đời (institutum saeculum) hay trong tu đoàn đời sống tông đồ (societas vitae apostolicae). Theo Giáo luật, trong tu hội đời hay tu đoàn đời sống tông đồ không có lời khấn “công”, nhưng chỉ là “tư”. Lời khấn tư không làm tiêu hôn, nhưng chỉ khiến hôn nhân bất hợp luật khi chưa được miễn chuẩn.
Giám mục Giáo phận có quyền miễn chuẩn ngăn trở lời khấn dòng công nếu dòng thuộc luật giáo phận. Tòa Thánh dành quyền miễn chuẩn lời khấn dòng công nếu dòng thuộc luật Giáo hoàng.

7- Bắt cóc

Không thể có hôn nhân giữa một người nam và một người nữ bị bắt cóc với chủ ý kết hôn với người ấy, trừ khi người nữ tự ý lựa chọn cuộc hôn nhân ấy, sau khi đã được tách rời ở một nơi an toàn và tự do (đ. 1089).

Khi người nữ bị bắt cóc thì kể như người này mất tự chủ, không có đủ sáng suốt để cam kết hôn nhân. Chỉ sau khi người nữ được tách rời ở một nơi an toàn tự do, khiến có thể tự quyết định một cách sáng suốt thì kết ước hôn nhân mới thành sự.

8- Tội ác

§1. Kẻ chủ ý kết hôn với một người nào đó mà gây ra cái chết cho người phối ngẫu của người ấy hay của mình, thì việc kết hôn này bất thành.
§2. Những người đã cộng tác với nhau cách thể lý hay luân lý để giết người phối ngẫu của họ, dù kết hôn với nhau cũng bất thành (đ. 1090).

Cộng tác cách luân lý có nghĩa là cộng tác bằng tác động tư tưởng, ví dụ như nói ủng hộ, bày mưu kế để giết hại… Cộng tác thể lý có nghĩa là cộng tác trong hành vi giết hại, ví dụ như đưa thuốc độc…
Quyền miễn chuẩn ngăn trở tội ác được dành riêng cho Tòa Thánh (đ. 1078§2,20).

9- Họ máu

§1. Những người có họ máu hàng dọc, từ dưới lên và từ trên xuống, hoặc pháp lý hoặc tự nhiên, kết hôn với nhau bất thành.
§2. Trong họ máu hàng ngang, hôn nhân bất thành cho đến hết bậc thứ bốn.
§3. Ngăn trở họ máu không nhân cấp.
§4. Không bao giờ cho phép kết hôn, nếu còn hồ nghi hai bên có họ máu với nhau ở bất cứ bậc nào thuộc hàng dọc hay ở bậc thứ hai thuộc hàng ngang (đ. 1090).

a- Luật hôn nhân gia đình của Việt Nam có hiệu lực ngày 01-01-2015, có giải thích về “trực hệ” (hàng dọc) như sau: “Những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau” (Điều 3, số 17).
Quan hệ họ máu hàng dọc, hay trực hệ, ví dụ, giữa ông (trên xuống) và cháu (dưới lên).
Trong họ máu hàng dọc hay trực hệ có bao nhiêu đời (generationes) thì có bấy nhiêu bậc (gradus), không tính gốc tổ chung (đ. 108§2).
Ví dụ: Quan hệ ông – cháu, được kết nối là ông – cha – cháuđược tính là 2 bậc hay 2 đời hàng dọc [có tổng cộng 3 người, ta trừ đi 1 tổ chung, thành 2].
Họ máu hàng dọc gây ngăn trở tiêu hôn ở mọi đời hay mọi bậc.
b- Quan hệ họ máu hàng ngang, được nối kết từ người dưới lên và vòng qua ông tổ rồi xuống.
Ví dụ : Quan hệ, anh – em họví dụ như con chú con bác, được kết nối là: anh – bác – ông – chú – em, được tính là 4 bậc hàng ngang [có tổng cộng 5 người, ta trừ 1 tổ chung, thành 4].
Hôn nhân có họ máu 5 bậc hàng ngang không còn có ngăn trở tiêu hôn.
Chú ý, trong họ máu hàng ngang, Giáo luật chỉ tính ngăn trở tiêu hôn theo “bậc” (gradus) chứ không tính theo “đời” (generationes). Trong họ máu hàng ngang, khái niệm “bậc” và “đời” không tương đương với nhau như trong hàng dọc (đ. 108§2).
c- Luật dân sự Việt Nam
Luật dân sự Việt Nam về Gia đình không dùng khái niệm “bậc” như trong Giáo luật, chỉ dùng khái niệm “đời”. Luật Việt Nam cấm kết hôn:

Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba (Điều 5, khoản 2d).

Trong họ máu hàng ngang, quy định của luật dân sự so với Giáo luật cũng tương đương như nhau về cấm hôn hay ngăn trở tiêu hôn, tuy cách dùng từ ngữ có khác nhau, về “đời” hay “bậc”. Ví dụ, anh – em con chú con bác, được tính là 3 đời theo luật dân sự, cũng tương đương với 4 bậc theo Giáo luật. Xa hơn hay hết 3 đời (tính theo dân sự) hay 4 bậc (tính theo Giáo luật) đều hết bị ngăn cấm hay ngăn trở kết hôn.
d- Ngăn trở họ máu không nhân cấp (non si moltiplica) nghĩa là không theo cách tính làm tăng bậc hay đời nhiều thêm lên.
Tại sao lại có sự nhân cấp?
Đôi khi do có những quan hệ chồng chéo và phức tạp, khiến có thể có thêm cách tính làm nhân bậc thêm lên. Ví dụ, hai anh em A và B cùng cha khác mẹ nhưng hai người mẹ lại là chị em ruột, khiến xảy ra hai cách tính:
anh A – cha – em B, được tính là  2 bậc hàng dọc. Cách tính này quy về người cha, nên xác nhận họ là hai anh em ruột.
anh A – mẹ A – bà AB – mẹ B- em B, được tính là 4 bậc hàng ngang. Cách tính này quy về người mẹ, nên xác nhận A và B là anh em họ cô dì.
Theo nguyên tắc không nhân cấp, phải xác định họ máu theo cách tính có kết quả ít nhất. Trong ví dụ trên, phải xác định A và B là anh em ruột cùng cha, có họ máu hàng dọc 2 bậc.
e- Giáo luật cấm tuyệt đối, nghĩa là không miễn chuẩn cho việc kết hôn có họ máu hàng dọc (cha – con…) và hàng ngang 2 bậc, tức là anh em ruột. Hơn nữa, khi có hồ nghi có họ máu này thì cũng không được phép kết hôn (đ. 1091§4).

10- Họ kết bạn (hôn thuộc)

Những người có họ kết bạn ở bất cứ bậc nào thuộc hàng dọc kết hôn với nhau bất thành (đ. 1092).

a- Khác với họ máu, “họ kết bạn” phát sinh do một hôn nhân thành sự, cho dù bất hoàn hợp, giữa người chồng với huyết tộc của người vợ, cũng như giữa người vợ với huyết tộc của người chồng.
Người chồng có “họ kết bạn” hàng dọc với phía vợ như sau:
– Một bậc hàng dọc với mẹ hay con riêng của vợ;
– Hai bậc hàng dọc với bà ngoại hay cháu riêng của vợ.
Ngược lại, người vợ có “họ kết bạn” hàng dọc với phía chồng một cách tương tự.
Họ kết bạn hàng dọc gây ngăn trở tiêu hôn cho cả một hay hai bậc như trên.
b- Vì vậy, sau khi vợ chết, chồng kết hôn bất thành với mẹ hoặc con gái riêng hay cháu ngoại của vợ.
Tuy nhiên họ kết bạn hàng ngang không gây tiêu hôn. Người chồng đó, sau khi vợ chết, có thể kết hôn hữu hiệu với chị hay em vợ, vì anh ta có họ kết bạn với những người ấy chỉ theo hàng ngang mà thôi.

11- Công hạnh (liêm sỉ)

Ngăn trở công hạnh phát sinh từ một cuộc hôn nhân bất thành sau khi đã sống chung do tư hôn công khai hay hiển nhiên; ngăn trở này tiêu hôn ở bậc thứ nhất thuộc hàng dọc giữa người chồng với những người nữ có họ máu với người vợ, và ngược lại (đ. 1093).

a- “Ngăn trở công hạnh” thì tương tự nhưng lại khác với “ngăn trở họ kết bạn”.  Ngăn trở công hạnh phát sinh từ một cuộc sống chung hiển nhiên bất hợp pháp hay có kết hôn nhưng không thành sự.
Họ thực sự chưa phải là vợ chồng hợp pháp, nhưng đã ăn ở công khai hay hiển nhiên như vợ chồng. Vì vậy, nếu họ kết hôn với cha mẹ hay con cái riêng của bên kia thì sẽ tạo nên một vụ tai tiếng, mất liêm sỉ, trái đạo đức.
Ví dụ, ông A đã sống chung công khai với bà B thì ông này kết hôn với mẹ hay con gái riêng của bà B thì quả là trái đạo đức, cho dù bà B này vẫn còn sống hay chết.
Tuy nhiên khi cuộc tư hôn hay sống chung của đôi bạn còn kín ẩn thì không tạo nên ngăn trở công hạnh.
Hôn nhân có ngăn trở công hạnh chỉ gây tiêu hôn một bậc hàng dọc; có thể được miễn chuẩn.

12- Họ pháp lý

Những người có họ với nhau do việc nhận con nuôi được pháp luật công nhận kết hôn với nhau bất thành ở hàng dọc hoặc ở bậc thứ hai thuộc hàng ngang (đ. 1094).

a- Việc nhận con nuôi chỉ tạo thành ngăn trở tiêu hôn họ pháp lý khi việc nhận con nuôi được pháp luật công nhận. Nếu chỉ nhận con nuôi bằng lời nói hay chỉ có giấy tờ riêng tư thì không được kể là có họ pháp lý, không gây tiêu hôn.
Con nuôi có họ pháp lý, sẽ kết hôn bất thành với cha, mẹ nuôi (hàng dọc) hoặc con của cha mẹ nuôi (hàng ngang hai bậc).
b- Họ thiêng liêng được hình thành giữa người đỡ đầu và người được đỡ đầu trong bí tích Rửa tội không còn gây ngăn trở tiêu hôn nào theo bộ Giáo luật mới.
Cũng vậy, những việc nhận cha con thiêng liêng bằng những hình thức khác mà không được pháp luật công nhận cũng không tạo nên ngăn trở tiêu hôn.

3.3. Ngăn trở công (public) và ngăn trở tiềm ẩn (occult)

a- Ngăn trở công (public)

Ngăn trở là công (public), được Giáo luật định nghĩa là  ngăn trở có thể chứng minh được ở tòa ngoài (đ. 1074).
Chữ public, trong tiếng Anh và cũng tương tự trong tiếng Latin, có nhiều nghĩa: công cộng, chung, công khai, công nhiên. Tuy nhiên Giáo luật lại hạn định ở ý nghĩa “có thể chứng minh được” (susceptibility to proof) nơi ngăn trở công. Nó không mang ý nghĩa công khai hay công nhiên. Thông thường, tính chất công của một ngăn trở tùy thuộc vào sự kiện hay chứng cớ có thể thu thập được bởi tiến trình thủ tục tư pháp hay hành pháp, ví dụ như ngăn trở, tuổi kết hôn, dây hôn phối, chức thánh, khấn dòng. [3]

b- Ngăn trở tiềm ẩn (occult)

Khác với ngăn trở công, ngăn trở tiềm ẩn (occult) lại không thể chứng minh được ở tòa ngoài.
Vậy thì điều gì lại khó có thể chứng minh được?
Chắc hẳn đó là những điều chỉ xảy ra trong tâm trí hoặc một điều còn nằm trong mập mờ, hoài nghi.
Ví dụ:
– Ngăn trở tội ác (đ. 1090) do có cộng tác vào việc giết hại người phối ngẫu kia, nhưng nếu sự cộng tác này lại là cộng tác luân lý, thuộc tinh thần, thì khó có thể chứng minh được, trừ khi chính đương sự thú nhận.
– Ngăn trở công hạnh (đ. 1093) xảy ra khi hai bên sống chung với nhau như vợ chồng công khai. Trong tình trạng họ sống chung một cách mập mờ, không rõ là công khai hay kín đáo thì khó có thể chứng minh là họ mắc ngăn trở công hạnh.
Ngăn trở tiềm ẩn (occult) hệ tại ở việc không thể chứng minh được, tuy nó thường là kín đáo. Nếu một ngăn trở còn kín đáo nhưng lại có thể chứng minh được thì đó là ngăn trở công.[4]
Cả hai loại ngăn trở công và tiềm ẩn đều khiến việc kết hôn vô  hiệu, nhưng quyền miễn chuẩn có thể khác nhau. Đối với ngăn trở tiềm ẩn, quyền miễn chuẩn được nới rộng hơn trong một số trường hợp. Ví dụ, khi một trong đôi bạn  nguy tử, cha giải tội có quyền miễn chuẩn những ngăn trở tiềm ẩn (ví dụ ngăn trở tội ác) ở toà trong, vào lúc hoặc ngoài lúc ban bí tích Giải tội (đ.1079§3)[5].

3.4. Miễn chuẩn

a- Khái niệm

 Miễn chuẩn, hay là sự nới lỏng một luật thuần túy Giáo hội trong một trường hợp đặc biệt, có thể được ban do những người có quyền hành pháp, trong giới hạn thẩm quyền của mình, cũng như do những người minh nhiên hay mặc nhiên có quyền miễn chuẩn, hoặc do chính luật, hoặc do ủy quyền hợp pháp (đ. 85).
Miễn chuẩn hay chuẩn (dispensatio)[6] là sự nới lỏng, không còn bắt buộc phải theo một quy định pháp lý hay luật lệ, được ban bởi người có quyền hành pháp.

Ví dụ, trong một giáo phận, Đức Giám mục Giáo phận, cha Tổng Đại diện, cha Đại diện Giám mục là những người có quyền hành pháp[7] có quyền miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn.
Miễn chuẩn cũng có hạn định; chỉ được miễn chuẩn những luật có tính cách kỷ luật, không được miễn chuẩn những luật ấn định những yếu tố thiết yếu làm nên định chế hay các hành vi pháp lý (đ. 86); cũng không được miễn chuẩn những luật hình sự hay tố tụng (đ. 87).

b- Phạm vi quyền miễn chuẩn

Đấng Bản quyền địa phương có quyền miễn chuẩn những ngăn trở thuộc luật Giáo hội, cho những người thuộc quyền mình và mọi người đang cư ngụ trong địa hạt của mình khỏi mọi ngăn trở thuộc luật Giáo hội (đ. 1078).
Điều trên có nghĩa là, Đấng Bản quyền địa phương có quyền miễn chuẩn cho giáo dân của mình đang tạm trú hay cử hành kết hôn ở giáo phận khác và cả những tín hữu ở nơi khác đến tạm trú hay cử hành kết hôn trong địa hạt giáo phận của mình.
Như vậy, một bên của đôi bạn có thể xin miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn từ Đấng Bản quyền địa phương của nơi cử hành hôn phối hoặc nơi mình hay bên kia cư ngụ, ngay cả trường hợp bên kia là người không Công giáo (người lương, Tin lành…). Ví dụ, nếu một bên kết hôn là người lương, cư ngụ trong giáo phận A, kết hôn ở giáo phận B, thì Bản quyền của giáo phận A vẫn có quyền ban miễn chuẩn ngăn trở hôn phối.
Thông thường Đấng Bản quyền địa phương có thẩm quyền  miễn chuẩn các ngăn trở hôn phối, tuy nhiên không được miễn chuẩn cho các trường hợp:
– Ngăn trở tiêu hôn dành riêng cho Tông Tòa: Khấn dòng thuộc luật giáo hoàng, chức thánh, tội ác (đ. 1087, 1088, 1090);
– Ngăn trở tiêu hôn thuộc luật Chúa hay tự nhiên: Dây hôn phối (đ. 1085), họ máu hàng dọc hay họ máu hàng ngang bậc thứ hai (anh em ruột, đ. 1078§3).

c- Miễn chuẩn khi đã sẵn sàng lễ cưới

Giáo luật dự trù miễn chuẩn ngăn trở khi gần đến lễ cưới, lúc mọi sự đã sẵn sàng, mới khám phá ra là có ngăn trở.
Để xin được miễn chuẩn phải mất thời gian, nhất là đối với những ngăn trở dành riêng cho Tông Tòa. Nếu phải chờ đợi, nguy cơ bị thiệt hại nặng nề có thể xảy ra. Trong trường hợp này, Bản Quyền địa phương được quyền miễn chuẩn ngay cả những ngăn trở dành riêng cho Tông Tòa, trừ ngăn trở chức thánh và khấn dòng thuộc luật Giáo hoàng (đ. 1080§1).
Trong trường hợp khám phá ra có ngăn trở tiềm ẩn (occult), nghĩa là, không thể chứng minh được ở tòa ngoài, mà mọi sự đã sẵn sàng và có nguy cơ bị thiệt hại nặng nề có thể xảy ra, thì ngay cả vị chứng hôn là cha sở, cha được ủy quyền chứng hôn cũng được quyền miễn chuẩn. Ngay cả cha giải tội hay một vị tư tế, phó tế (đ. 1079§§2-3) cũng có quyền miễn chuẩn những ngăn trở còn tiềm ẩn (đ. 1079§2).

d- Miễn chuẩn ngăn trở trường hợp nguy tử

Nguy tử khẩn cấp
Trong trường hợp nguy tử khẩn cấp, Đấng Bản quyền địa phương có thể ban cho những người thuộc quyền mình đang ở bất cứ nơi nào hoặc mọi người đang cư ngụ trong địa hạt của mình:
– Được miễn chuẩn khỏi phải giữ thể thức cử hành hôn nhân, nghĩa là, khỏi phải cử hành hôn lễ theo nghi lễ Giáo hội (đ. 1079§1).
Trong nguy tử, khi được miễn chuẩn thể thức, một sự biểu lộ sự ưng thuận kết hôn đơn giản thì cũng đủ để hôn nhân thành sự, theo như điều 1116 quy định: “Có thể kết hôn cách thành sự và hợp pháp trước mặt các nhân chứng mà thôi”.
– Được miễn chuẩn khỏi mọi ngăn trở, cũng như từng ngăn trở công hay tiềm ẩn thuộc luật Giáo hội, trừ ngăn trở do thánh chức Linh mục (đ. 1079§1).
Nguy tử khẩn cấp nhưng không xin chuẩn được
Trong cùng các hoàn cảnh nguy tử khẩn cấp được nói đến ở trên (đ. 1079§1), nhưng lại không thể đến với Đấng Bản quyền địa phương để xin miễn chuẩn được, thì cả cha sở hay thừa tác viên có chức thánh đã được uỷ quyền hợp pháp, lẫn tư tế hay phó tế chứng hôn chiếu theo quy tắc của điều 1116§2, đều có cùng một quyền miễn chuẩn như Bản Quyền địa phương (đ. 1079§1).
Được coi là không thể đến với Đấng Bản quyền địa phương, nếu chỉ có thể liên lạc với ngài qua điện tín hoặc điện thoại (đ. 1079§1).
Điều này cho thấy miễn chuẩn phải được ban bằng văn bản, một phúc chiếu (Rescriptum), chứ không ban qua lời nói, như quy định:

Phúc chiếu là hành vi hành chính do nhà chức trách có thẩm quyền hành pháp ban hành bằng văn bản; tự bản chất, phúc chiếu ban một đặc ân, một ơn miễn chuẩn hay một ân huệ nào khác, theo sự thỉnh cầu của một người (đ. 59§1).

Miễn chuẩn ngăn trở tòa trong
Giáo luật quy định ở điều 1079§3:

Trong cơn nguy tử, cha giải tội có quyền miễn chuẩn những ngăn trở tiềm ẩn (occult) ở toà trong, vào lúc hoặc ngoài lúc ban bí tích Sám Hối.

Miễn chuẩn ngăn trở “ở tòa trong” được hiểu là miễn chuẩn được thực hiện trong sự kín đáo, riêng tư. Miễn chuẩn ngăn trở “ở toà ngoài” được hiểu là miễn chuẩn được thực hiện theo thủ tục luật định, như thông thường vẫn làm.
Điều 1082 cũng quy định về ngăn trở tiềm ẩn:

Trừ khi phúc chiếu của Toà Ân giải quy định cách khác, phép chuẩn một ngăn trở tiềm ẩn đã được ban ở toà trong nhưng ngoài bí tích, phải được ghi trong một cuốn sổ được lưu giữ cẩn thận tại văn khố mật của Tòa Giám mục, và nếu sau này ngăn trở tiềm ẩn thành ngăn trở công, thì không cần phải xin một phép chuẩn nào khác ở toà ngoài.

Dựa vào điều 1079§3, thì trong trường hợp nguy tử cha giải tội có quyền miễn chuẩn những ngăn trở tiềm ẩn (occult), ở tòa trong vào lúc hoặc ngoài lúc ban bí tích Sám Hối. Tuy vậy, nếu miễn chuẩn ngăn trở ngoài bí tích Giải Tội[8] thì phải ghi vào sổ lưu giữ cẩn thận tại văn khố mật của Tòa Giám mục. Nếu sau này ngăn trở lại chứng minh được, thì cũng không cần phải xin một phép chuẩn nào khác ở toà ngoài.[9]

e- Đơn xin miễn chuẩn các ngăn trở

Cha sở giúp đôi bạn sắp kết hôn làm đơn lên Đấng Bản quyền (Giám mục Giáo phận, hoặc Tổng Đại diện, hoặc Đại diện Giám mục) hoặc linh mục nào được Giám mục ủy quyền miễn chuẩn trong phạm vi hôn phối. Dĩ nhiên là ngăn trở đó phải thuộc thẩm quyền của Đấng Bản quyền địa phương chứ không dành riêng cho Tông Tòa; và cha sở nhận thấy có lý do chính đáng để đôi bạn có thể được miễn chuẩn.
Đơn xin miễn chuẩn nên làm thành 3 bản để có thể lưu lại Tòa Giám mục và giáo xứ.

3.5. Những trường hợp kết hôn cần xin phép

Điều 1071 quy định:

§1. Trừ những trường hợp cần thiết, nếu không có phép Đấng Bản quyền địa phương, không ai được chứng hôn:
1)  Hôn nhân của những người không có cư sở;
2)  Hôn nhân nào không thể được công nhận hay không thể được cử hành chiếu theo quy tắc của luật dân sự;
3)  Hôn nhân của người mắc nghĩa vụ tự nhiên phát sinh do cuộc phối hợp trước, đối với bên kia hay đối với con cái;
4)  Hôn nhân của người hiển nhiên chối bỏ đức tin Công giáo;
5)  Hôn nhân của người đang mắc vạ;
6)  Hôn nhân của người vị thành niên (dưới 18 tuổi trọn), khi cha mẹ không hay biết hay đã phản đối cách hợp lý;
7)  Hôn nhân cử hành qua những người đại diện;
§2. Đấng Bản quyền địa phương không được ban phép chứng hôn cho người đã hiển nhiên chối bỏ đức tin Công giáo, trừ khi đã giữ những quy tắc được nói đến ở điều 1125, với những thích nghi cần thiết.

a- Không thể kết hôn dân sự

Luật quy định việc kết hôn phải xin phép khi “không được công nhận hay không thể được cử hành chiếu theo quy tắc của luật dân sự” (đ.1071§1,20). Trong thực tế, đó có thể là trường hợp đôi bạn muốn kết hôn nhưng không thể được chính quyền cho đăng ký kết hôn. Nguyên nhân có thể là do thiếu tuổi, không có giấy tờ dân sự, tội phạm…

b- Nghĩa vụ tự nhiên do cuộc phối hợp trước

Hôn nhân của “người mắc nghĩa vụ tự nhiên phát sinh do cuộc phối hợp trước, đối với bên kia hay đối với con cái” cần được lưu ý.  Cần phải giải quyết ổn thỏa giữa hai bên khi họ còn mắc nghĩa vụ; hoặc khi có hồ nghi là có mắc nghĩa vụ thì phải điều tra để tránh được sự lừa gạt gây hà tỳ ưng thuận dẫn đến nguy cơ hôn nhân tan vỡ sau này, nhất là đối với những người ở tỉnh khác xa hay ngoại quốc.
Ví dụ, trong trường hợp một người đã có con riêng thì tự người đó phải cho người mình sắp cưới được biết và phải thoả thuận rõ ràng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa đôi bạn và với phía bên kia.

c- Hiển nhiên chối bỏ đức tin Công giáo

Sự chối bỏ đức tin Công giáo, trong trường hợp này phải là hiển nhiên. Sự bê trễ, không thực hành đạo, chưa kể là chối bỏ đức tin hiển nhiên.
Do sự tôn trọng quyền kết hôn và tự do tín ngưỡng của mọi người, Giáo hội không đặt một ngăn trở tiêu hôn hay cấm hôn hoàn toàn đối với người hiển nhiên chối bỏ đức tin Công giáo. Đấng Bản quyền địa phương có thể cho phép họ được kết hôn khi có lý do chính đáng và thấy cần thiết.
Bản Quyền chỉ cho phép kết hôn, khi bên Công giáo phải cam kết và hứa cố gắng hết sức tránh mọi nguy hiểm cho đức tin, cố gắng rửa tội và giáo dục con cái, giống như điều kiện đòi hỏi đối với kết hôn khác đạo hay hỗn hợp (đ. 1125).

d- Kết hôn bất hợp luật nhưng hữu hiệu

Đối với những trường hợp cần phải có phép của Đấng Bản quyền theo điều 1071 nói trên, nếu cử hành mà không xin phép thì hôn nhân cử hành bất hợp luật nhưng vẫn hữu hiệu. Ví dụ, không có phép mà vẫn cử hành hôn phối cho người nam dưới 20 tuổi, thì hôn nhân bất hợp luật nhưng vẫn thành sự.
Tuy nhiên, sự đòi có phép của các trường hợp của điều 1071§1 cũng có thể được miễn trừ trong những “trường hợp cần thiết”. Do đó, khi xảy ra trường hợp cần thiết thì có thể không buộc phải xin phép. Ví dụ: khi mọi sự chuẩn bị kết hôn đã sẵn sàng mới khám phá ra rằng cần phải có phép, nhưng lại không thể liên lạc được với Đấng Bản quyền, thì khi đó có thể cử hành chứng hôn mà không buộc phải xin phép.

3.6. Cấm kết hôn

Trong một trường hợp đặc biệt, Đấng Bản quyền địa phương có thể cấm những người thuộc quyền mình đang ở bất cứ nơi nào và mọi người hiện đang cư ngụ trong địa hạt của mình không được kết hôn, nhưng chỉ trong một thời gian mà thôi vì một lý do nghiêm trọng và bao lâu lý do ấy còn kéo dài (đ. 1077§1).

a- Thẩm quyền cấm kết hôn

Đấng Bản quyền địa phương có thể cấm (vietare) kết hôn vì một lý do nghiêm trọng. Điều cấm kết hôn này không phải do luật định, nhưng do quyết định của Đấng Bản quyền, thực hiện trong sự suy xét khôn ngoan của mình. Luật này như là một bổ túc cho những luật kiểm soát và ngăn cản việc kết hôn, như được thấy ở điều 1071: người vô gia cư, không đăng ký kết hôn dân sự được, người đang mắc nghĩa vụ tự nhiên…, hoặc như điều 1124 về kết hôn hỗn hợp, hoặc những trường hợp mắc ngăn trở tiêu hôn mà Giáo luật hay giáo quyền không cho miễn chuẩn.

b- Giới hạn cấm kết hôn

Điều 1077§1 quy định Đấng Bản quyền có quyền cấm kết hôn đối với người thuộc quyền và mọi người hiện đang cư ngụ trong địa hạt của mình, nhưng chỉ giới hạn trong một thời gian. Việc cấm kết hôn chỉ áp dụng cho từng trường hợp riêng lẽ, không được áp dụng chung. Giáo luật không cho phép Đấng Bản quyền thiết lập một luật cấm hôn hay tiêu hôn cho dù chỉ trong giáo phận riêng của ngài, chỉ có quyền bính tối cao của Giáo hội mới có quyền này (đ. 1075§1).
Vì vậy, cha sở không được phép đặt thêm quy định có giá trị như những luật cấm kết hôn.
Nên lưu ý, việc ban hành những quy định về điều kiện kết hôn như: thời gian học giáo lý, số lượng kinh phải thuộc lòng, thời gian phải đăng ký trước kết hôn… quá mức nào đó, có thể trở thành việc ban hành, bởi cha xứ, một luật cấm kết hôn, bị kể là vi phạm những điều 1058, 1075, 1077.

3.7. Một số quy định hôn nhân theo luật dân sự

Luật Hôn Nhân và Gia Đình của Việt Nam ban hành 19-06-2014, có hiệu lực 01-01-2015 có những quy định sau đây:

a. Cấm các hành vi:

Điều 5 khoản 2 cấm các hành vi sau:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

b. Điều kiện kết hôn

Điều 8 quy định những điều kiện kết hôn:
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.




[1] Cần phân biệt giữa hôn nhân được “tháo gỡ” và hôn nhân “bất thành”. Tháo gỡ có ý nói đến sự cho tháo gỡ dây ràng buộc hôn phối của một hôn nhân đã thành sự. Ví dụ, hôn nhân không là bí tích được tháo gỡ nhờ đặc ân Thánh Phaolô, nhờ đặc ân Đức Tin; hôn nhân chưa hoàn hợp được tháo gỡ bởi Đức Giáo Hoàng. Bất thành có ý nói là chưa được thành lập một cách hữu hiệu. Ví dụ, hôn nhân được tòa án hôn phối tuyên bố là vô hiệu hay bất thành.
[2] Khi ra khỏi hàng giáo sĩ, những nhiệm vụ và quyền lợi của hàng giaó sĩ bị chấm dứt, nhưng chức thánh vẫn còn. Sau đó, nếu được chuẩn ngăn trở chức thánh thì được kết hôn hữu hiệu. Lúc đó, chức thánh vẫn còn nhưng mất các năng quyền. Tuy nhiên, vẫn có năng quyền giải tội cho người nguy tử, chiếu theo điều 976.
[3] x. J.P. BEAL et aliiNew Commentary…, 1158; L. SABBARESE, Il matrimonio canonico nell ordine della natura e della grazia. Commento…, UUP, Città del Vaticano 2002, 393.
Bản Việt Ngữ hiện hành dịch là “ngăn trở công khai” thì không phù hợp: “Ngăn trở được coi là công khai khi có thể chứng minh ở toà ngoài; đối lại là ngăn trở kín đáo” (đ. 1074).
[4] Vì lý do này, xin chuyển chữ ngăn trở “kín đáo” trong Bộ Giáo luật Việt ngữ hiện hành, sang ngăn trở “tiềm ẩn”.
[5] Trong trường hợp miễn chuẩn ngăn trở tiềm ẩn ở tòa trong, thì ngăn trở này lại còn mang tính chất kín đáo, chưa được nhiều người biết đến.
[6] Phải chấp nhận rằng ngôn ngữ được hình thành theo thói quen, dù nhiều khi thiếu hợp lý. Trong ngôn ngữ Việt Nam cả hai chữ miễn chuẩn đi với nhau để bổ túc ý nghĩa cho nhau, tương tự như nói: cấm không được làm…. Hai chữ này không loại trừ nhau. Là sai lầm khi lý luận cho rằng miễn chuẩn là hành vi miễn đi sự chuẩn, tức là không chuẩn; hoặc cấm không được làm tức là được làm.
[7] Đấng Bản quyền (Ordinarius) có quyền hành pháp và quyền này được sử dụng thường xuyên khi đang có chức vụ, nên vị này cũng được gọi là Đấng Thường Quyền.
[8] Nếu miễn chuẩn thực hiện trong bí tích Giải Tội thì không được ghi sổ, do có nguy cơ vi phạm ấn tích tòa Giải Tội.
[9] Trừ ngăn trở do thánh chức Linh Mục (đ. 1079§1).
Nguồn: giaoluatconggiao.com

Check Also

CẨM NANG: 5- CỬ HÀNH KẾT HÔN – JB. Lê Ngọc Dũng

Sự kết hôn là một hành vi có tính xã hội và pháp lý, vì …